Cuộc tấn công của Đức Trận Hy Lạp

Vượt qua Nam Nam Tư và tiến đến Thessaloniki

Sáng sớm ngày 6 tháng 4, các tập đoàn quân Đức đã tiến đánh Hy Lạp, trong khi không quân Đức Luftwaffe bắt đầu oanh kích dữ dội thủ đô Beograd của Nam Tư. Quân đoàn Thiết giáp 40 — được dự định huy động vào cuộc tấn công qua miền nam Nam Tư — bắt đầu cuộc tấn công của mình lúc 5h30. Họ đồng loạt tiến qua biên giới Bulgaria tại hai điểm riêng biệt. Đến tối ngày 8 tháng 4, sư đoàn bộ binh 73 của Đức đã chiếm Prilep, cắt đứt một tuyến đường sắt quan trọng nối giữa Beograd và Thessaloniki đồng thời chia cắt Nam Tư với các đồng minh của họ. Quân Đức giờ đã làm chủ khu vực địa hình có lợi cho các chiến dịch tấn công tiếp theo. Tối ngày 9 tháng 4, tướng Stumme triển khai lực lượng của mình tại bắc Monastir, để chuẩn bị mở rộng cuộc tấn công qua biên giới Hy Lạp về phía Florina. Vị trí này đe dọa bao vây quân Hy Lạp tại Albania và lực lượng W ở khu vực Florina, EdessaKaterini.[59] Trong khi để một phân đội yếu hơn phòng thủ sau lưng quân đoàn trước một đòn tấn công bất ngờ từ miền trung Nam Tư, các đơn vị thuộc Sư đoàn Thiết giáp số 9 đã tràn về phía tây để tập hợp với quân Ý tại biên giới Albania.[60]

Sư đoàn Thiết giáp số 2 Đức (Quân đoàn Sơn chiến 18) đã tiến vào Nam Tư từ phía đông sáng ngày 6 tháng 4, và tiếp tục hành quân về phía tây qua thung lũng Struma. Họ không gặp nhiều kháng cự từ phía đối phương, nhưng bị ngăn cản bởi những hành động tiêu thổ, các bãi mìn và tình hình đường sá lầy lội. Dù vậy, sư đoàn này vẫn chiếm được mục tiêu cho ngày hôm đó là thị trấn Strumica. Ngày 7 tháng 4, một cuộc phản công của Nam Tư vào sườn phía bắc của sư đoàn này đã bị đánh lui, và hôm sau thì sư đoàn vượt qua dãy núi đánh tan sư đoàn bộ binh cơ giới số 19 của Hy Lạp đóng tại phía nam hồ Doiran. Mặc dù bị các con đường núi chật hẹp cản trở khá nhiều nhưng một đội quân thiết giáp tiên phong được điều đi theo hướng Thessaloniki đã tiến vào được thành phố trong sáng ngày 9 tháng 4.[61] Cuộc chiếm đóng Thessaloniki không hề gặp phải kháng cự, và sau đó Cụm Tập đoàn quân Đông Macedonia của Hy Lạp đã ra đầu hàng, bắt đầu lúc 13h00 ngày 10 tháng 4.

Phòng tuyến Metaxas

Phòng tuyến Metaxas do Cụm Tập đoàn quân Đông Macedonia phòng giữ, bao gồm các sư đoàn bộ binh số 7, 14 và 18, dưới quyền chỉ huy của trung tướng Konstantinos Bakopoulos. Phòng tuyến này chạy dài khoảng 170 km dọc sông Nestos ở phía đông, và dọc theo biên giới Bulgaria cho đến dãy núi Belasica gần biên giới Nam Tư. Các công sự được thiết kế để có thể đồn trú một đạo quân hơn 200.000 người, nhưng do thiếu nhân lực nên con số thực tế chỉ khoảng 70.000. Cũng do thiếu quân mà hệ thống phòng ngự bị trải mỏng ra rất nhiều.[62]

Các cuộc tấn công ban đầu của Đức vào phòng tuyến này được thực hiện bởi một đơn vị bộ binh riêng lẻ được tăng cườnhg sư đoàn sơn chiến thuộc Quân đoàn Sơn chiến số 18. Các lực lượng đầu tiên đã gặp phải sức kháng cự dữ dội và chỉ thu được ít thành công.[63] Một bản báo cáo của Đức vào cuối ngày đầu tiên mô tả Sư đoàn Sơn chiến số 5 Đức "bị đẩy lui tại đèo Rupel bất chấp sự yểm trợ mạnh nhất của không quân và chịu thượng vong lớn".[64] Trong 24 pháo đài cấu tạo nên phòng tuyến Metaxas, chỉ có hai pháo đài bị thất thủ, và đó là sau khi chúng đã bị hủy diệt.[65] Phần lớn các pháo đài — bao gồm Rupel, Echinos, Arpalouki, Paliouriones, Perithori, Karadag, Lisse và Istibey — đã kháng cự trong suốt ba ngày.[66]

Phòng tuyến này cuối cùng đã bị chọc thủng sau ba ngày các pháo đài bị quân Đức bắn phá liên hồi bằng pháo binhmáy bay ném bom bổ nhào. Công trạng này chủ yếu nhờ Sư đoàn Sơn chiến số 6 Đức đã vượt qua dãy núi tuyết phủ cao 2.100 mét và đột phá một vị trí mà người Hy Lạp cho là không thể tiếp cận. Lực lượng này tiếp cận tuyến đường sắt dẫn đến Thessaloniki tối này 7 tháng 4. Một đơn vị khác thuộc Quân đoàn Sơn chiến số 18 cũng từng bước tiến quân trước những khó khăn to lớn. Sư đoàn số 5, cùng với Trung đoàn Bộ binh 125 tăng viện, đã chọc thủng tuyến phòng thủ sông Strymon ngày 7 tháng 4 và tấn công dọc theo cả hai bờ con sông này, phá hủy mọi boongke trên đường họ đi qua. Tuy nhiên, đơn vị này cũng phải chịu tổn thất nặng nề đến mức không thể tiếp tục hoạt động sau khi đã tiếp cận được vị trí mục tiêu. Sư đoàn bộ binh số 72 tiến từ Nevrokop qua địa hình đồi núi và dù phải chịu nhiều bất lợi do thiếu súc vật thồ, pháo binh hạng trung và trang bị cho vùng núi, nhưng cũng đã đột phá qua được phòng tuyến Metaxas tối ngày 9 tháng 4 khi tiến đến khu vực đông bắc thành phố Serres.[67] Ngay cả sau khi tướng Bakopoulos đem phòng tuyến Metaxas ra đầu hàng, các pháo đài cô lập vẫn tiếp tục kháng cự trong nhiều ngày, và chỉ bị chiếm khi Đức dùng pháo binh hạng nặng tấn công. Một số binh lính biên phòng Hy Lạp vẫn tiếp tục chiến đấu chống cự, và một số người đã chạy thoát được bằng đường biển.[68]xxxxnhỏ|Bố trí các lực lượng tại Thung lũng Florina, ngày 10 tháng 4 năm 1941. Mũi tên màu xanh lam biểu thị cuộc tiến quân của Đức và các phòng tuyến của Đồng Minh được tô màu đỏ. Vevi và đèo Klidi ở giữa, phía trên, tổng hành dinh Lữ đoàn số 19 Úc ở trung tâm và tổng hành dinh lực lượng Mackay tại Perdika, ở giữa, bên dưới.]]

Quân đội Hy Lạp tại Macedonia đầu hàng

Quân đoàn Bộ binh 30 (Đức) bên cánh trái đã tiến đến mục tiêu được phân công của mình tối ngày 8 tháng 4, khi Sư đoàn Bộ binh 164 chiếm được Xanthi. Sư đoàn Bộ binh 50 đã vượt qua Komotini tiến về sông Nestos, nơi mà cả hai sư đoàn này đều đến được trong ngày hôm sau. Ngày 9 tháng 4, các lực lượng Hy Lạp phòng giữ phòng tuyến Metaxas đầu hàng vô điều kiện sau khi sức kháng cự tại phía đông sông Axios tan rã. Ngày 9 tháng 4, khi đánh giá tình hình, thống chế Wilhelm List cho rằng nhờ cuộc tiến quân nhanh chóng của các đơn vị cơ động, Tập đoàn quân 12 của ông giờ đã có điều kiện thuận lợi để tiến vào miền trung Hy Lạp bằng cách phá vỡ lực lượng tập trung của đối phương bên kia sông Axios. Trên cơ sở đánh giá này, List đề nghị chuyển giao Sư đoàn Thiết giáp số 5 của Cụm Thiết giáp số 1 sang cho Quân đoàn Thiết giáp 40. Ông lập luận rằng nếu có sư đoàn này sẽ tăng cường sức tấn công của Đức qua lối Monastir. Để tiếp tục chiến dịch, ông đã thành lập hai cụm quân tấn công, cụm phía đông nằm dưới quyền bộ tư lệnh Quân đoàn Sơn chiến 18, cụm phía tây dưới quyền Quân đoàn Thiết giáp 40.[69]

Đột phá tới Kozani

Đến sáng ngày 10 tháng 4, Quân đoàn Thiết giáp 40 đã hoàn tất công cuộc chuẩn bị cho chiến dịch tấn công tiếp theo, và tiếp tục tiến theo hướng Kozani. Trái với dự đoán, lối đi qua Monastir đã bị bỏ ngỏ và người Đức đã tận dụng cơ hội này. Cuộc chạm trán đầu tiên với quân Đồng Minh diễn ra ở phía bắc Vevi lúc 11h00 ngày 10 tháng 4. Quân lính SS đã chiếm cứ Vevi trong ngày 11 tháng 4, nhưng đã bị chặn lại tại đèo Klidi sát phía nam thị trấn, tại đó một đội quân hỗn hợp Hy Lạp và Khối Thịnh vượng chung đã tập hợp lại với cái tên Lực lượng Mackay, theo lời Wilson đã nói: "... chặn đứng một đòn tấn công chớp nhoáng xuống thung lũng Florina."[70] Trong ngày hôm sau, trung đoàn SS do thám các vị trí của đối phương và đến lúc hoàng hôn đã mở một đòn công kích trực diện lên đèo. Sau một cuộc chiến dữ dội, quân Đức áp đảo được đối phương và phá vỡ phòng tuyến.[71] Đến sáng 14 tháng 4, mũi nhọn tiến công Sư đoàn Thiết giáp số 9 đã tiến đến Kozani.

Đèo Olympus và đèo Servia

Wilson phải đối mặt với viễn cảnh bị quân Đức đánh kẹp lại từ phía Thessaloniki, cụ thể là bị bọc sườn bởi Quân đoàn Thiết giáp 40 Đức đang tiến xuống qua lối Monastir. Ngày 13 tháng 4, ông quyết định rút toàn bộ lực lượng Anh trở lại tuyến sông Haliacmon, rồi về con đèo hẹp tại Thermopylae.[72] Ngày 14 tháng 4, Sư đoàn Thiết giáp số 9 thiết lập một đầu cầu vượt sông Haliacmon, nhưng mọi nỗ lực nhằm tiến xa hơn đều bị hỏa lực dữ dội của đối phương chặn đứng. Vị trí phòng thủ này có ba bộ phận chính: khu vực đường hầm Platamon nằm giữa núi Olympus và biển, đèo Olympus, và đèo Servia về phía đông nam. Bằng cách hướng cuộc tấn công của đối phương qua ba hẻm núi này, trận tuyến mới sẽ tăng cường sức mạnh phòng thủ cho lực lượng giới hạn hiện tại. Quân phòng thủ tại đèo Olympus và đèo Servia bao gồm các Lữ đoàn New Zealand 4 và 5, cùng Lữ đoàn Úc 16. Trong ba ngày tiếp theo, cuộc tiến quân của Sư đoàn Thiết giáp 9 đã bị đình trệ trước các vị trí kiên quyết cố thủ này.[73]

Có một tòa lâu đài đổ nát án ngữ đỉnh núi giữa con đèo ven biển dẫn đến Platamon. Trong đêm 15 tháng 4, một tiểu đoàn mô tô Đức cùng một xe tăng yểm trợ đã tấn công đỉnh núi này, nhưng bị Tiểu đoàn New Zealand số 2 của đại tá Macky đẩy lùi, nhưng tiểu đoàn này cũng bị tổn thất nặng sau cuộc chiến. Sau đó, trong ngày, một trung đoàn thiết giáp Đức đã đến nơi và đánh vào hai bên sườn phía bờ biển và đất liền của tiểu đoàn New Zealand, nhưng họ vẫn giữ vững trận địa. Sau khi được tăng viện trong đêm 15-16, quân Đức đã tập hợp được một tiều đoàn xe tăng, một tiểu đoàn bộ binh và một tiểu đoàn mô tô. Lúc bình minh, bộ binh Đức tấn công đại đội cánh trái của New Zealand, còn xe tăng Đức tiến đánh dọc bờ biển vài giờ đồng hồ sau đó.[74]

Các pháo thủ chống tăng Úc đang nghỉ ngơi sau khi rút lui khỏi khu vực Vevi.

Tiểu đoàn New Zealand phải rút lui qua sông Pineios; và cho đến buổi chiều thì họ đến được lối thoát ở phía tây là hẻm núi Pineios, và chỉ chịu thương vong không đáng kể.[74] Macky được báo tin rằng tình hình "cần thiết phải chặn đối phương tại hẻm núi này cho đến ngày 19 tháng 4 kể cả cho có bị hủy diệt".[75] Ông cho đánh chìm một sà lan làm cầu tại điểm cực tây hẻm núi khi người của mình qua hết và bắt đầu bố trí phòng ngự. Tiểu đoàn 21 được tăng viện tiểu đoàn bộ binh 2/2 Úc và hôm sau có thêm tiểu đoàn bộ binh 2/3, giờ đội quân này được gọi là "Lực lượng Allen" đặt theo tên lữ đoàn trưởng "Tubby" Allen. Các tiểu đoàn Bộ binh 2/5 và 2/11 Úc đã hành quân đến khu vực Elatia phía tây nam hẻm núi và được lệnh chống giữ lối thoát phía tây này có thể trong ba đến bốn ngày.[76]

Ngày 16 tháng 4, tướng Wilson gặp tướng Papagos tại Lamia và thông báo cho ông ta quyết định rút lui về Thermopylae. Tướng Blamey giao trách nhiệm cho các tướng Mackay và Freyberg trong việc lui quân về Thermopylae. Mackay sẽ bảo vệ sườn của sư đoàn New Zealand về phía nam thành một tuyến đông-tây qua Larissa và kiểm soát cuộc rút lui qua Domokos đến Thermopylae của các lực lượng dưới quyền Savige và Zarkos, cuối cùng là lực lượng của Lee; Lữ đoàn Thiết giáp 1 Anh sẽ bảo vệ cuộc rút lui của lực lượng Savige về Larissa và sau đó là của sư đoàn 6 đang đến theo lệnh; Freyberg sẽ kiểm soát cuộc rút lui của Lực lượng Allen sẽ tiến cùng đường với sư đoàn New Zealand. Các lực lượng Khối Thịnh vượng chung Anh vẫn phải chịu các cuộc tấn công liên tục trong suốt qua trình rút lui.[77]

Sáng ngày 18 tháng 4, cuộc chiến tại hẻm núi Pineios kết thúc khi bộ binh thiết giáp Đức vượt qua con sông bằng phao nổi và Sư đoàn Sơn chiến số 6 hoạt động quanh tiểu đoàn New Zealand - sau đó đã bị giải tán. Ngày 19 tháng 4, những binh lính đầu tiên của Quân đoàn Sơn chiến 18 tiến vào Larissa và chiếm giữ các sân bay, tại đó các kho đạn tiếp tế của Anh vẫn được để lại nguyên vẹn. Quân Đức còn thu giữ được 10 xe tải lương thực và nhiên liệu, giúp cho các đơn vị xung kích có thể tiếp tục tiến quân mà không cần ngừng nghỉ. Bến cảng Volos, nơi mà rất nhiều đơn vị lính Anh trở lại tàu trong mấy ngày cuối cùng, thất thủ ngày 21 tháng 4; tại đó quân Đức chiếm được một số lượng lớn dầu diesel và dầu thô cố giá trị.[78]

Cuộc rút lui và đầu hàng của Tập đoàn quân Epirus

Binh lính Hy Lạp đang rút lui, tháng 4 năm 1941.

Khi quân Đức đã tiến sâu vào lãnh thổ Hy Lạp, Cụm Tập đoàn quân Epirus (ΤΣΗ) của Hy Lạp đóng tại Albania bắt buộc phải rút lui. Tướng Wilson đã mô tả sự miễn cưỡng này là "học thuyết sùng bái không chịu nhường một thước đất nào cho người Ý".[79] Cho đến tận ngày 13 tháng 4, các đơn vị đầu tiên của Hy Lạp mới bắt đầu rút về dãy núi Pindus. Cuộc rút lui của quân Đồng Minh đến Thermopylae đã làm lộ ra một tuyến đường qua dãy núi Pindus mà qua đó quân Đức có thể đánh tập hậu quân Hy Lạp. Một lực lượng SS tinh nhuệ — lữ đoàn Leibstandarte SS Adolf Hitler — đã được giao nhiệm vụ cắt đứt đường rút của Tập đoàn quân Epirus khỏi Albania bằng cách tiến về phía tây đến đèo Metsovo, và từ đó tiến ra Ioannina.[80] Ngày 14 tháng 4, chiến sự ác liệt nổ nổ ra tại đèo Kleisoura, và quân Đức chặn được đường rút của quân Hy Lạp. Cuộc rút lui sau đó mở rộng ra toàn mặt trận Albania, và quân Ý tiến hành truy kích không quyết liệt.[81]

Tướng Papagos thúc các đơn vị Hy Lạp đến con đèo Metsovo, nơi mà dự kiến quân Đức sẽ tấn công. Ngày 18 tháng 4, nổ ra một trận đánh dàn trận giữa vài đơn vị Hy Lạp và lữ đoàn Leibstandarte SS Adolf Hitler — lúc này đã tiến đến Grevena.[81] Quân Hy Lạp thiếu trang bị cần thiết để chiến đấu với một đơn vị cơ giới, đã sớm bị bao vây và đè bẹp. Quân Đức tiếp tục tiến lên và đến ngày 19 tháng 4 đã chiếm được Ioannina, tuyến đường tiếp tế cuối cùng của Tập đoàn quân Epirus.[82] Báo chí phe Đồng Minh đã gọi số phận của đội quân Hy Lạp là một bi kịch Hy Lạp thời hiện đại. Sử gia và cựu phóng viên chiến trường Christopher Buckley đã mô tả số phận của quân Hy Lạp như "một trải nghiệm về sự thanh lọc thực sự của Aristoteles, một ý nghĩa đầy cảm hứng về sự phù phiếm của toàn bộ nỗ lực và lòng can đảm của con người".[83]

Ngày 20 tháng 4, tư lệnh các lực lượng Hy Lạp tại Albania — tướng Georgios Tsolakoglou - nhận ra tình hình vô vọng và đề nghị cho quân đội của mình - tổng cộng có 14 sư đoàn - đầu hàng.[81] Sử gia về Chiến tranh thế giới thứ hai, John Keegan đã viết rằng Tsolakoglou "đã rất kiên quyết ... trong việc ngăn không cho người Ý thỏa mãn với một chiến thắng mà họ không giành được ... ông ta đã mở [một] cuộc đàm phán hoàn toàn chưa được cho phép với viên chỉ huy sư đoàn SS Đức đối đầu mới mình, Sepp Dietrich, để dàn xếp một sự đầu hàng chỉ với người Đức mà thôi."[84] Theo các mệnh lệnh nghiêm ngặt của Hitler, cuộc đàm phán được giữ bí mật đối với người Ý, và sự đầu hàng được chấp thuận.[81] Bị xúc phạm trước quyết định này, Mussolini đã ra lệnh mở cuộc phản công vào các lực lượng Hy Lạp, nhưng đã bị đẩy lùi. Theo kháng nghị cá nhân của Mussolini với Hitler, nghi thức đầu hàng đã được dời đến ngày 23 tháng 4 để cho cả người Ý tham dự.[85] Binh lính Hy Lạp không bị đối xử như tù nhân chiến tranh và được phép trở về nhà sau khi giải giáp khỏi đơn vị, còn các sĩ quan được quyền giữ lại các vũ khí cá nhân của mình.[86]

Vị trí Thermopylae

Pháo binh Đức bắn phá trong cuộc tiến quân tại Hy Lạp.

Ngày 16 tháng 4, bộ chỉ huy Đức nhận ra rằng người Anh đang rút quân lên thuyền tại VolosPiraeus. Toàn bộ chiến dịch liền được chuyển thành một cuộc truy kích. Đối với người Đức, vấn đề chính bây giờ là tiếp cận các lực lượng Anh đang rút lui và chặn đứng kế hoạch sơ tán của họ. Các sư đoàn bộ binh Đức do thiếu tính cơ động nên được ngừng hoạt động. Còn lại các Sư đoàn Thiết giáp 2 và 5, trung đoàn bộ binh cơ giới SS số 1 và các sư đoàn sơn chiến mở cuộc truy kích đuổi theo các lực lượng đối phương.[87]

Để di tản được phần lớn đội quân viễn chinh Anh, Wilson đã ra lệnh cho lực lượng chặn hậu tiến hành cuộc chống cự cuối cùng tại con đèo Thermopylae lịch sử, cửa ngõ để tiến vào Athens. Tướng Freyberg được giao nhiệm vụ phòng ngự phần đèo ven biển, còn Mackay chống giữ ngôi làng Brallos. Sau trận chiến, Mackay đã nói rằng "Tôi không mơ về việc sơ tán; tôi nghĩ rằng chúng ta sẽ cố thủ khoảng hai tuần lễ và bị đánh quỵ bởi gánh nặng về quân số."[88] Khi nhận được lệnh rút lui sáng ngày 23 tháng 4, đã có quyết định rằng mỗi vị trí này sẽ được chống giữ bởi một lữ đoàn. Đó là các lữ đoàn 19 của Úc và 6 của New Zealand, họ sẽ phòng thủ con đèo lâu nhất có thể, để cho các đơn vị khác rút đi. Quân Đức bắt đầu tấn công lúc 11h30 sáng 24 tháng 4, và gặp phải sức kháng cự mãnh liệt, mất 15 xe tăng và chịu thương vong đáng kể.[89] Quân Đồng Minh kháng cự suốt cả ngày; và sau khi nhiệm vụ cầm chân đã hoàn thành, họ rút lui về phía bãi biển sơ tán và tiếp tục tiến hành một hoạt động chặn hậu tại Thebes.[90] Các đơn vị thiết giáp Panzer tung quân truy kích dọc theo con đường băng qua con đèo nhưng tốc độ chậm do đường dốc và số lượng lớn các chỗ rẽ quanh co gồ ghề.[91]

Quân Đức tiến vào Athens

Cuộc tranh cãi về chiến thắng cuộc tiến quân chiến thắng vào Athens bản thân nó là một vấn đề: Hitler không muốn làm một cuộc diễu hành đặc biệt, để tránh gây tổn thương niềm tự hào dân tộc của Hy Lạp. Nhưng than ôi, Mussolini lại nhất định đòi một cuộc tiến quân vẻ vang vào thành phố cho đội quân Ý của ông ta. Führer đã nhân nhượng trước yêu cầu của Ý và hai đội quân Đức Ý đã cùng nhau tiến vào. Cảnh tượng đau khổ này, được người đồng minh hào hiệp của chúng tôi bố trí, chắc đã phải gây ra những tràng cười trống rỗng cho người Hy Lạp.

Wilhelm Keitel[92]

Sau khi rời bỏ khu vực Thermopylae, đội quân chặn hậu của Anh rút về một vị trí ngẫu hứng ở phía nam Thebes, tại đó họ dựng lên một chướng ngại vật cuối cùng phía trước Athens. Tiểu đoàn mô tô thuộc Sư đoàn Thiết giáp số 2, đã vượt biển tiến ra đảo Euboea để đánh chiếm cảng Chalcis và sau đó quay lại đất liền, được giao nhiệm vụ bọc đánh tập hậu quân Anh. Đội quân mô tô chỉ gặp phải sức kháng cự yếu ớt, và đến sáng ngày 27 tháng 4 năm 1941, đội quân Đức đầu tiên đã tiến vào Athens, theo sau là các xe thiết giáp, xe tăng và bộ binh. Họ chiếm được một số lượng lớn còn nguyên vẹn dầu mỏ, dầu máy và dầu bôi trơn, hàng ngàn tấn đạn dược, 10 xe tải chứa đầy đường ăn và 10 xe tải đầy ắp các thực phẩm khác, cùng với nhiều trang thiết bị, vũ khí, và vật tư y tế.[93] Người dân Athens đã biết trước quân Đức sẽ tiến vào thành phố trong nhiều ngày và tự giam mình trong nhà với những cánh cửa sổ đóng kín. Đến đêm, đài phát thanh Athens đã phát đi thông báo sau đây:

Đám đổ nát do máy bay Đức ném bom tại Piraeus ngày 6 tháng 4 năm 1941 (Đài tưởng niệm Chiến tranh Úc, Canberra). Trong trận ném bom này, một tàu biển chở Nitroglycerin đã bị đánh trúng, gây ra vụ nổ khủng khiếp.[94]
"Các bạn đang nghe đài tiếng nói Hy Lạp. Hy Lạp, đứng vững, tự hào, và tôn quý. Các bạn phải tự chứng minh rằng mình xứng đáng với lịch sử của mình. Sự dũng cảm và chiến thắng của quân đội chúng ta đã được công nhận. Lý tưởng đúng đắn của chúng ta cũng sẽ được công nhận. Chúng ta đã thực hiện nghĩa vụ của mình một cách hết mình. Hỡi các bạn! Với Hy Lạp trong trái tim mình, hãy sống đầy cảm hứng với ngọn lửa chiến thắng mới nhất và vinh quang quân đội chúng ta. Hy Lạp sẽ sống một lần nữa và sẽ vĩ đại, vì nó đã chiến đấu hết mình vì một lý tưởng duy nhất và vì tự do. Các anh em! Với lòng can đảm và kiên nhẫn. Hãy dũng cảm lên. Chúng ta sẽ đạp bằng gian khổ. Hy Lạp! Với Hy Lạp trong tâm trí, các bạn phải tự hào và tôn quý. Chúng ta là một quốc gia trung thực và là những người lính dũng cảm."
— [95]

Quân Đức tiến thẳng đến thành thủ Acropolis và treo cờ Quốc xã. Theo ghi chép phổ biến nhất về các sự kiện, người lính Evzones của Hy Lạp làm nhiệm vụ bảo vệ thành là Konstantinos Koukidis đã hạ Quốc kỳ Hy Lạp, từ chối đưa nó cho quân xâm lược đang bao vây anh ta, và nhảy từ trên thành Acropolis xuống.[96] Bất kể câu chuyện này là đúng hay sai, nhiều người Hy Lạp đã tin vào nó và xem người lính đó như một vị Thánh tử đạo.[90]

Cuộc sơ tán của lực lượng Khối Thịnh vượng chung

Có rất ít thông tin từ Hy Lạp, nhưng có 13.000 người đã trốn thoát đến Crete trong đêm ngày Thứ Tư, và như vậy có hy vọng rằng tỷ lệ phần trăm sơ tán khá cao. Thật là lo lắng khủng khiếp ... Nội các Chiến tranh. Winston nói rằng "Chúng ta sẽ chỉ mất 5.000 người ở Hy Lạp." Thực tế chúng ta sẽ mất ít nhất 15.000. W. là một người vĩ đại, nhưng ông ấy cảm thấy cần phải lo lắng hơn thường ngày.

Robert Menzies, trích đoạn nhật ký của ông, ngày 27 và 28 tháng 4 năm 1941[97]

Sáng ngày 15 tháng 4 năm 1941, Wavell đã gửi cho Wilson thông điệp sau đây: "Tất nhiên chúng ta cần phải tiếp tục chiến đấu phối hợp chắt chẽ với Hy Lạp, nhưng từ những tin tức ở đây, có vẻ như việc tiếp tục rút lui sớm là cần thiết."[98]

Tướng Archibald Wavell — tư lệnh các lực lượng lục quân Anh tại Trung Đông, có mặt tại Hy Lạp trong các ngày 11–13 tháng 4 — đã cảnh báo Wilson rằng ông ta không được mong chờ thêm tiếp viện nữa, và cho phép thiếu tướng Freddie de Guingand thảo luận về kế hoạch sơ tán cùng một số sĩ quan chịu trách nhiệm. Tuy nhiên, lúc này người Anh đã không thể thông qua hay thậm chí là đề cập đến một phương án hành động; mà đề nghị phải đến từ chính phủ Hy Lạp. Hôm sau, Papagos có hành động đầu tiên khi ông yêu cầu Wilson cho lực lượng W rút lui. Wilson liền thông báo cho Tổng hành dinh Trung Đông, và đến ngày 17 tháng 4, chuẩn đô đốc H. T. Baillie-Grohman được phái đến Hy Lạp nhằm chuẩn bị cho việc sơ tán.[99] Cũng trong ngày hôm đó Wilson đã vội vã đến Athens để tham dự một hội nghị với Quốc vương Hy Lạp, Papagos, d'Albiac và chuẩn đô đốc Turle. Đến tối, Koryzis, sau khi thông báo với Quốc vương rằng ông cảm thấy mình đã thất bại với nhiệm vụ được giao phó, liền tự sát.[100] Ngày 21 tháng 4, quyết định cuối cùng về việc sơ tán của các lực lượng Khối Thịnh vượng chung đến CreteAi Cập được đưa ra, và Wavell — xác nhận các chỉ thị bằng miệng — đã gửi cho Wilson các mệnh lệnh viết tay của mình.[101]

5.200 người, phần lớn thuộc Lữ đoàn New Zealand số 5 đã được sơ tán trong đêm 24 tháng 4 khỏi Porto Rafti thuộc Đông Attica, còn Lữ đoàn New Zealand số 4 ở lại để chặn con đường hẹp dẫn đến Athens, được người New Zealand gọi là Con đèo 24 giờ.[102] Ngày 25 tháng 4 (Ngày ANZAC), vài phi đội RAF rời Hy Lạp (d'Albiac đã thiết lập tổng hành dinh của mình tại Heraklion, Crete), và khoảng 10.200 lính Úc được sơ tán khỏi NauplionMegara.[103] Có 2.000 người phải đợi cho đến ngày 27 tháng 4, do chiếc Ulster Prince bị mắc cạn tại vùng nước cạn gần Nauplion. Vì sự kiện này mà quân Đức đã nhận ra rằng cuộc di tản đang được tiến hành tại các cảng ở Đông Peloponnese.[104]

Chúng ta không thể chống lại mong muốn của Tổng tư lệnh Hy Lạp bằng cách ở lại Hy Lạp, và như vậy là đặt đất nước này vào cảnh tàn phá. Wilson hay Palairet cần phải có được sự xác nhận của chính phủ Hy Lạp về đề nghị của Papagos. Hệ quả của việc xác nhận này là cuộc sơ tán sẽ được tiếp tục, nhưng không được gây nguy hại cho cuộc rút lui về vị trí Thermopylae trong hoạt động hợp tác với quân đội Hy Lạp. Các bạn tất nhiên sẽ cố gắng để bảo vệ càng nhiều tài sản vật chất càng tốt.

Churchill trả lời về đề xuất của Hy Lạp ngày 17 tháng 4 năm 1941[105]

Hải quân và các thuyền buôn Hy Lap đã đóng một vai trò quan trọng trong cuộc sơ tán các lực lượng Đồng Minh khỏi đất liền, Peloponnesus và đảo Crete, đồng thời cũng chịu nhiều thiệt hại nặng nề.[106] Ít nhất 80% lực lượng Anh được sơ tán từ 8 cảng nhỏ ở phía nam với sự giúp đỡ của Hoàng gia và Hải quân Hy Lạp. 26 tàu, trong đó 21 là của Hy Lạp, đã bị phá hủy vì không kích. Về sau, Hải quân Hy Lạp đã đại diện riêng biệt trong nhiều chiến dịch của Đồng Minh tại Địa Trung Hải.[107]

Ngày 25 tháng 4, quân Đức tổ chức một chiến dịch không vận để đánh chiếm các cây cầu bắc qua kênh đào Corinth, với mục tiêu vừa cắt đứt tuyến rút lui của Anh, vừa đảm bảo đường tiến quân qua eo đất Corinth. Cuộc tấn công thu được thành công ban đầu, cho đến khi một viên đạn pháo lạc của Anh phá hủy cây cầu.[108] Trung đoàn Bộ binh Cơ giới SS số 1 (LSSAH), tập trung tạo Ioannina, đã tiến dọc theo chân núi phía tây dãy Pindus, qua Arta đến Missolonghi, và vượt biển sang Peloponnese tại Patras nhằm tiếp cận eo đất từ phía tây. Khi đến nơi lúc 17h30 ngày 27 tháng 4, các lực lượng SS nhận ra rằng số lính dù đã được các đơn vị lục quân đến từ Athens giải vây.[93]

Tàu chở quân Slamat của Hà Lan thuộc đội hộ tống đã sơ tán khoảng 3.000 quân Anh, Úc và New Zealand khỏi Nafplio thuộc Peloponnese. Khi đội tàu hộ tống tiến xuống phía nam vào vịnh Argolic sáng ngày 27 tháng 4 thì bị 1 phi đoàn 9 máy bay Junkers Ju 87 thuộc Không đoàn 77 (Stukageschwader 77) của Đức tấn công, tàu Slamat bị thương và bốc cháy. Tàu HMS Diamond giải cứu được khoảng 600 người sống sót và HMS Wryneck cũng đến để trợ giúp, nhưng khi 2 tàu khu trục này tiến vào vịnh Souda ở Crete thì lại bị Ju 87 tấn công đánh đắm cả hai. Tổng số người chết trong 3 vụ chìm tàu này là khoảng 1.000. Chỉ còn 27 thủy thủ của Wryneck, 20 thủy thủ của Diamond, 11 thủy thủ và 8 lính sơ tán của Slamat là sống sót.[109][110][111]

Việc dựng lên một cây cầu tạm bắc qua kênh Corinth đã giúp các đơn vị thuộc Sư đoàn Thiết giáp 5 có thể tiếp tục truy kích lực lượng đối phương tại Peloponnese. Tràn qua Argos đến Kalamata, nơi hầu hết các đơn vị Đồng Minh bắt đầu sơ tán, họ tiến đến bờ biển phía nam vào ngày 29 tháng 4, và hợp với đội quân SS đang tiến đến từ Pyrgos.[93] Chiến sự trên bán đảo Peloponnese chỉ có vài cuộc giao tranh quy mô nhỏ với các nhóm quân cô lập của Anh không kịp lên tàu. Cuộc tấn công diễn ra quá muộn để có thể cắt đường lui của các lực lượng Anh tại miền trung Hy Lạp, nhưng cũng cô lập được các lữ đoàn 16 và 17 của Úc.[112] Đến 30 tháng 4, cuộc sơ tán khoảng 50.000 binh lính đã kết thúc,[a] nhưng bị Không quân Đức gây tổn thất dữ dội với ít nhất 26 tàu chở đầy quân bị đánh chìm. Quân Đức bắt được khoảng 8.000 người thuộc Khối Thịnh vượng chung (trong đó có 2.000 người SípPalestin) và quân Nam Tư tại Kalamata không được sơ tán, đồng thời giải thoát nhiều người Ý trong các trại tù binh.[113]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Trận Hy Lạp http://www.awm.gov.au/cms_images/histories/18/chap... http://www.awm.gov.au/cms_images/histories/18/chap... http://www.awm.gov.au/cms_images/histories/18/chap... http://www.awm.gov.au/encyclopedia/greek_campaign.... http://www.awm.gov.au/histories/chapter.asp?volume... http://www.oph.gov.au/menzies/thegreekcampaign.htm http://www.ww2australia.gov.au/greatrisk/greatrisk... http://www.ww2australia.gov.au/greatrisk/greatrisk... http://members.iinet.net.au/~gduncan/maritime-2.ht... http://www.ahistoryofgreece.com/press/lestweforget...